Tuesday, July 3, 2012

TRAI NGOẠI 'BẮC THANG LÊN TRỜI' ĐÒI 40.000 USD 'TÌNH PHÍ'

Hai người đã yêu nhau thắm thiết dù mới chỉ gặp gỡ, trò chuyện qua internet vì cách nhau nửa vòng trái đất. Sau cuộc hội ngộ ngoài đời cùng lời thề non hẹn biển bên nhau, biết nàng có khó khăn về tài chính, chàng đã hào phóng chuyển về giúp nàng trên 40.000 USD. Không ai ngờ đoạn cuối của cuộc tình lãng mạn lại đi đến tan vỡ, cực chẳng đã chàng kiện nàng ra tòa để đòi khoản tình phí đã trao...
Mối tình xuyên lục địa
Tháng 4/2006, qua việc chat trên mạng internet, ông Jose Andres, quốc tịch Tây Ban Nha quen biết với bà Nguyệt Hằng ở TP.Hồ Chí Minh. Qua quá trình chuyện trò qua mạng, hai người cảm thấy rất tâm đầu ý hợp và nảy sinh quan hệ tình cảm. Đến tháng 7/2006, ông Jose mời bà Hằng sang Tây Ban Nha du lịch. Sau đó bà Hằng về Việt Nam, tình cảm hai người vẫn nồng thắm, ông Jose đã hai lần gửi tiền cho bà Hằng về Việt Nam tổng cộng trên 40.000 USD.
Hai người yêu nhau nhưng lại cách nhau nửa vòng trái đất như vậy nên khó tránh khỏi tình trạng “xa mặt cách lòng”. Sau những giận hờn xa cách, tình yêu của hai người đã diễn biến theo chiều hướng xấu, dẫn đến kết cục khó tránh khỏi là chia tay. Khi tình yêu tan vỡ, ông Jose đòi bà Hằng món tiền trước kia đã chu cấp, giúp đỡ người tình nhưng bà Hằng không trả. Cực chẳng đã, người tình ngoại quốc kiện bà Hằng ra TAND TP.Hồ Chí Minh để đòi nợ.
Tại đơn khởi kiện ngày 6/1/2010, ông Jose ủy quyền cho một công dân tại TP.Hồ Chí Minh tham gia tố tụng, theo đó yêu cầu buộc bà Hằng trả lại số tiền nêu trên với lý do đây là tiền bà Hằng mượn để kinh doanh và hứa trả sau một năm. Bà Hằng thừa nhận có nhận tiền của “người trong mộng” đúng như lời khai của ông Jose nhưng cho rằng ông Jose tự nguyện cho bà vì hai bên có tình cảm với nhau và dự định đi đến kết hôn; bà đã chi tiêu cá nhân và kinh doanh chứng khoán thua lỗ nên không còn và cũng không có nghĩa vụ phải trả.
Tại bản án sơ thẩm, TAND TP.Hồ Chí Minh tuyên buộc bà Hằng phải có trách nhiệm trả cho ông Jose toàn bộ số tiền mà bà đã nhận vì cho rằng bà Hằng không chứng minh được số tiền đã nhận là ông Jose cho, nên có căn cứ xác định số tiền mà ông Jose gửi cho bà Hằng là tiền cho mượn và ông Jose yêu cầu bà Hằng trả là có cơ sở. Sau đó bà Hằng kháng cáo toàn bộ án sơ thẩm với lý do khoản tiền đó là “quà tặng tình yêu”, hoàn toàn không có chuyện vay mượn nợ nần nên không có nghĩa vụ phải hoàn trả. Tại phiên tòa phúc thẩm, TAND Tối cao tại TP.Hồ Chí Minh quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, tuyên y án sơ thẩm. Bà Hằng tiếp tục khiếu nại vụ án theo thủ tục Giám đốc thẩm và Chánh án TAND Tối cao đã kháng nghị Giám đốc thẩm vụ án.
Có kiện đòi được “tình phí” hay không?
Tại phiên họp Giám đốc thẩm ngày 17/3/2014, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã quyết định hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm; giao xét xử sơ thẩm lại. Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán có một số vấn đề pháp lý quan trọng sau: Quyết định Giám đốc thẩm giao xét xử sơ thẩm lại theo hướng nếu không có chứng cứ gì mới thì phải bác yêu cầu đòi tiền của nguyên đơn ông Jose. Ông Jose là người nước ngoài, cư trú tại Tây Ban Nha nhưng bị đơn ở Việt Nam, giao dịch nhận tiền xảy ra ở Việt Nam, Việt Nam và Tây Ban Nha cũng chưa có quy định riêng nên việc áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp là pháp luật Việt Nam. Ông Jose và bà Hằng đều thống nhất số tiền đã giao nhận, nhưng ông Jose cho rằng bà Hằng mượn số tiền trên nên phải trả; còn bà Hằng thì cho rằng ông Jose cho bà là để giúp đỡ nên bà không phải trả.
Theo quy định tại Điều 512 Bộ luật Dân sự thì: “Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, còn bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được”. Theo quy định tại điều 465 Bộ luật này cũng nêu: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận”.
Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tòa nhận định, do đó số tiền 40.000 USD tranh chấp nêu trên cũng có thể là đối tượng của hợp đồng mượn tài sản hoặc hợp đồng tặng cho tài sản.
So sánh các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của hợp đồng mượn tài sản với hợp đồng tặng cho tài sản thì khác biệt căn bản là người mượn tài sản có nghĩa vụ trả lại tài sản còn người được tặng cho thì không có nghĩa vụ trả lại tài sản. Để xác định là loại hợp đồng nào nếu hợp đồng đã không được đặt tên thì phải xác định được những quyền, nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận xác lập. Đồng thời xác định những quyền hoặc nghĩa vụ ấy có thuộc những quyền hay nghĩa vụ đặc trưng của một loại hợp đồng nào không.
tinh phi, doi tinh phi, trai ngoai doi tinh phi, het yeu doi tinh phi, ky an o viet nam, tin, bao
Các tài liệu mà ông Jose và bà Hằng xuất trình đều là các thư điện tử email. Trong các thư bà Hằng gửi do ông Jose xuất trình không có nội dung nào xác định việc bà Hằng nhận tiền là “mượn” tiền, cũng không có nội dung nào thể hiện bà Hằng xác định bà có nghĩa vụ trả tiền hay lẽ ra phải trả nhưng do khó khăn mà chưa trả được. Như vậy, ông Jose chưa có đủ chứng cứ để chứng minh đã cho bà Hằng mượn tiền. Trong các thư ông Jose gửi do bà Hằng xuất trình cũng không có nội dung nào thể hiện dứt khoát ý chí của ông Jose tặng cho bà Hằng số tiền đã gửi. Như vậy, bà Hằng cũng chưa có đủ chứng cứ chứng minh việc bà nhận tiền là từ hợp đồng tặng cho.
Trong vụ án này, việc đánh giá chứng cứ của các cấp Tòa án là giống nhau nhưng xác định hậu quả pháp lý khác nhau. Cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cho rằng không phải là cho thì là mượn và phải trả lại, cấp Giám đốc thẩm xác định chưa đủ căn cứ là cho nhưng cũng chưa đủ căn cứ là mượn thì phải bác yêu cầu khởi kiện.
Quyết định của Hội đồng Thẩm phán trên cơ sở nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh đã quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng Dân sự là: “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Ông Jose đưa ra yêu cầu đòi lại tiền cho mượn thì có nghĩa vụ chứng minh đúng là việc mượn tiền; không chứng minh được rõ ràng thì không thể chấp nhận yêu cầu. Bà Hằng nêu ra sự kiện là tiền tặng cho thì bà Hằng có quyền chứng minh, nếu đúng là tặng cho thì càng có cơ sở để bác yêu cầu đòi tiền của ông Jose nhưng nếu bà Hằng chưa chứng minh được thì cũng không cản trở việc bác yêu cầu của nguyên đơn. Vì các lẽ trên, TAND Tối cao đã tuyên hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm; giao xét xử sơ thẩm lại từ đầu theo hướng bác yêu cầu của ông Jose, bà Hằng không phải trả lại khoản “tình phí” 40.000 USD mà trước đó đã nhận.
Một Thẩm phán TAND Tối cao cho rằng, vấn đề cốt lõi của vụ án này là Tòa án phải xác định thực chất hợp đồng dân sự trong vụ án là hợp đồng gì. Để xác định hợp đồng là hợp đồng gì phải xác định theo các dấu hiệu đặc trưng của loại hợp đồng theo quy định của pháp luật (khái niệm về một loại hợp đồng cụ thể theo pháp luật).
Thực tiễn áp dụng pháp luật thấy rằng, không phải cứ không là quan hệ tặng cho thì sẽ là vay mượn. Nguyên tắc của tố tụng dân sự là đương sự phải tự chứng minh, nguyên đơn không chứng minh được việc cho vay thì sẽ bị bác yêu cầu, mặc dù bị đơn cũng không chứng minh được là họ được cho số tài sản đó.